Làng là nơi lưu giữ những kỷ niệm làm cho tâm hồn mỗi
người trở nên thanh thản, tìm lại chân lý sống phù hợp với đạo lý làm người. "Ăn quả nhó kẻ trồng cây".
Làng là một triết lý sống. Tình làng nghĩa xóm hãy thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn
nhau, tối lửa tắt đèn có nhau, khi hoạn nạn có nhau. Một nét văn hoá Làng!
Nằm cạnh Quốc lộ 1A cụ Lê Quang Kim mô tả quang cảnh
đình làng:
Đình ta vẫn có từ lâu
Tổ đình dựng hướng quay về Đông Nam
Phía Tây Thuận Hoá rõ ràng
An Hoà tên đẹp vô vàn kính yêu
Xưa kia cổ thụ trồng nhiều
Chung quanh bao bọc thành đầy trang
nghiêm
Hằng năm chiếu lệ tế làng
Bố tôi thường dự gắn tình đồng hương
Chẳng qua chiến cuộc đổi thay
Đình làng bị dỡ nơi nầy nơi kia
Sau ngày hiệp định Giơ-ne-vơ (1954)
Hoà bình lập lại rực cờ mừng vui
Dân làng nô nức tưng bừng
Đem đình dựng lại phục hồi chốn xưa
Bao nhiêu kiến trúc cầu kỳ
Ông cha xây dựng để dành mai sau
Họ Hồ là tộc đứng đầu
Có công lập nghiệp gọi là khai canh
Cứ theo thứ tự anh em
Mười hai họ họp chăm lo việc làng
Xưa kia làng lắm nhân tài
Gần đây lại có văn hào Cư Trinh
Có công xây dựng tổ đình
Ngày nay con cháu chúng mình nghĩ sao?
Người nhiều kẻ ít đóng vào
Sửa sang đình lại tự hào tích xưa.
Xuân
Kỷ Tỵ (1989)
Đình làng nằm phía Bắc Thuận Hoá - Kinh thành Huế,
Làng An Hoà có 2 địa danh: An Hoà Thượng, An Hoà Hạ. Phủ biên tạp lục cụ Thượng
thư Lê Quý Đôn viết (1776) Làng An Hoà thuộc xã An Hòa. Đến năm 2007 Làng An
Hoà nằm thuộc phường An Hoà.
Theo tập văn tế Làng do Bác Nguyễn Đại Thưởng viết
ngày 17/2/1973 Họ Hồ khai khẩn làng. Tổng số Họ trong làng: 12
9 Họ xa xưa: Hồ - Đăng - Văn - Viết - Trần Đăng - Lê
Quang - Nguyễn Thắng - Nguyễn Đức - Nguyễn Tấn.
3 Họ mới (thế kỷ 20): Nguyễn Đại - Nguyễn Thiện - Trần
Văn.
Ngoài ra còn nhiều phụ phái như Phan, Nguyễn Sanh, Trần
Đình, Nguyễn, Ngô, Nguyễn Bá.
Theo sách Ô Châu Cận Lục làm xong năm Ất Mão (1553)
ghi chép lại các làng xã của hai châu ô - Lý. Có lẽ trước khi xây dựng kinh
thành Huế, làng An Hoà toạ lạc nội thành.
Sau khi xây kinh đô Phú Xuân 1802 làng An Hòa dời ra
khỏi nội thành Huế. Từ đó làng An Hoà gồm 3 giáp: giáp Thượng, giáp Trung, giáp
Đồng Nhì và thêm vùng Hạ Giang.
Tự hào các địa danh gắn liền hai chữ An Hoà: trưòng tiểu
học An Hoà, chợ An Hoà, cầu An Hoà, sân vận động An Hoà, bưu điện An Hoà, ngã 3
An Hoà, ga An Hoà, cửa An Hoà... Tinh thần của dân làng là chợ và đình làng
"chợ và đình" được gắn bó khắng khít với nhau.
Đình làng An Hoà hiện nay nằm cạnh công viên rộng rãi,
vào ban đêm có đèn chiếu sáng thật đẹp.
Quê hương nơi chôn nhau cắt rốn. Văng vẳng tiếng hát:
Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày. Quê hương nếu ai không
nhớ, sẽ không lớn nổi thành người. Ai lớn lên cũng có một quê hương yêu dấu cả.
Sau 200 năm bao nhiêu công sức xây dựng của con dân
làng, tình làng biểu hiện như một bức tranh tuyệt vời: cây đa, bến nước, con
đò... đầy trang nghiêm tôn kính.
Vào năm 1952 chiến tranh xảy ra đồn Tây đóng ở Cầu An
Hoà, đình làng buộc phải di dời ra giáp Đồng Nhì. Cảnh quan làng bị xoá trắng.
- Năm 1956 bẳt đầu trở lại xây đình thờ tự.
- Năm: 1970 xây dựng mới (KTS Nguyễn Đăng Mô) đốc công
Trần Đăng Vy, Nguyễn Đăng Tiếu, Nguyễn Đăng Toàn, Nguyễn Lôi
- Năm 1975 đình làng được dùng vào việc khác.
- Năm 1989 tiếp tục phục hồi việc thờ cúng.
Mùa hạ năm Mậu Tý (2008) đình làng được tân trang tu sửa
lại.
Theo phong thủy ngôi đình hướng Đông Nam, phía trước
có dòng sông Đào. Mái đình lợp ngói liệt, bốn trụ biểu cao, có bình phong long
mã gắn sành sứ có câu đối trước sau. Sân đình rộng rãi, thiết kế theo kiến trúc
đình làng thời Chúa Nguyễn. Các trụ ngôi đình bằng bê tông. Nóc gắn sành sứ
long lân quy phụng giao cù đầy đủ làm cho nóc đình thêm đẹp. Có các câu đối
hoành phi trong đình làng luôn gắn với sự tích liên quan đến cội nguồn. Chú
Nguyễn Đăng Mô cố vấn kỹ thuật bản vẽ xây dựng ngôi đình, chủ thầu Võ Chất (người
thôn An Vân).
Trên đây là tài sản chung quý giá, tất cả con dân làng
thế hệ chúng ta có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản dù đã định cư lâu dài hay mới
đến cư ngụ.
Vào nội đình có 5 án thờ gồm 3 án giữa và 2 án bên. Án
giữa thờ thần, 2 án tả hữu thờ 12 họ tộc. Bên cạnh có khắc bia ghi nhận công trạng
của Ngài Thừa Bị qua sự tích chuộc lại đình làng". Có bức hoành chạm trổ
sơn son thết vàng cùng bộ lỗ bộ gồm gươm, giáo, bút... đe thờ do cháu Nguyễn Viết
Đàng cúng năm 1972. Cái hộp sắc màu đỏ đựng sắc phong vua chúa triều Nguyễn ban
cho.
Tiền đàng đình có diện tích:..........................
Hậu tẩm đình có diện tích:............................
Các am thờ ngoài đình làng, các khám đều có câu đối cả.
Bức hoành phi sơn son thết vàng ba chữ "Hội Tế Đường" kiến tạo đời vua
Thiệu Trị năm Tân Sửu (1841) đã bị thiêu huỷ năm Mậu Thân (1968).
* Giữa khám thờ:
- Thượng đẳng thần hai bên tả hữu có câu đối:
Công
tắc tự chi - Đức kỳ thạnh hỹ
- Hữu ban (khám thờ phía hữu)
Câu đối: Thời ma hữu tranh - Hoà dĩ giáng phước
- Tả ban (khám thờ phía tả):
Câu đối: Cảm dĩ toại thông - cầu chi tất ứng
4 câu đối viết ở vách tường hai bên khám :
Nhứt hương hòa
thạnh lại hồng ân
Tiến hinh như
tại phước vô cương
Thể vật bất
di thành khả cách
Tam giáp an
khương bằng đại đức.
* Tại miếu thờ Ngài khai canh :
Giữa: Quang tiền
Trong khám: Phu
Bí tiền công
Viết
thừa tiên chí
Ngoài khám: Cạnh nhương bạn đức biển hương lân
Khai
tất tiên công hoằng vũ trụ
* Tại miếu thờ Ngài Thành Hoàng:
Giữa: Oai linh
Trung khám: Thần công chi hiển cổ kim
Chánh
khí tố căn tạo hóa
Ngoài khám thờ: Giang sơn hà xứ bất xuân phong
Vũ
trụ chi gian dai phận sự.
* Bốn trụ biểu ngó ra phía ngoài sông:
Hạo khí vãng
lai gian vị nhựt vi tinh vi vũ lộ.
An chi sự cảnh
thành sa thủy tráng quan tăm vận hội diệt tân miếu vũ.
Hoà giã chân
vi quí thân hiền lợi lạc cựu sơn hà tức cựu nhân dân.
Sùng từ chiêm
ngưỡng xứ thử dân thử thổ thử sơn hà.
* Phía nhìn vào trong đình :
Nghiễm nhược
hữu lâm thân nhứt dĩ linh than tạo hoá.
Phiệt thuỷ tả
thanh hương hình thể chiêm quan hồng nhựt cận trường an diệt cận.
Tâm thai bàng
chiếu đối nhơn dân khương thái sơn hà linh phong thổ giai linh.
Đỉnh nhiên tư
lập nhơn tam bất hủ tại giang sơn.
* Tại bình phong long mã:
- Hai câu viết trước bình phong:
Bình khí tợ bất
túc
Phong vân
cánh hữu dư
- Hai câu viết sau bình phong:
Bình thành
nhơn cọng ngưỡng
Phong lai điểu
bất kinh
* Ba
bức hoành ở tiền đường:
- Phía trưóc: Địa linh - Kỉnh tại - Nhơn kiệt
- Phía trong: Tả chiêu - An Hòa đình - Hữu mục
Đình làng là nơi thờ tự vị Thành Hoàng, thông thường
là người có công khai khẩn đất đai lập nên làng. "Thành Hoàng bổn cảnh" như vị thần có huyền năng mang đến
hạnh phúc, danh lợi, tiền tài, tình duyên, mùa màng và cả điều hung cát. Đây là
vị thần thiêng liêng an trấn tại Đình. Thành Hoàng (thần làng) làng nào cũng có
gọi là Phúc thần (ban phúc cho dân chúng) bảo vệ mọi con dân làng, phù hộ cho
làng được bình an, thịnh vượng.
Họ Hồ khai khẩn lập nên làng xóm, qui tụ dân, có công
rất lớn! Năm 2004 ban điều hành làng cùng 12 họ tộc đã nhường đất cho Họ Hồ
khai khẩn làm nên nhà thờ mặc dù đã có Am thờ tại làng.
Bên cạnh làng có Am âm hồn. Lập miếu âm hồn để vong
linh những người chết dọc đường không có bà con thân thích. Đây là thể hiện
lòng nhân ái của những con người ở làng quê (Hội xe kéo ngày xưa lập ra).
Ba giáp đều có am thò. 3 năm Hội tế một lần, dân làng
cung nghinh Ngài về đình, tế xong cung nghinh các Ngài trỏ lại am thờ.
Ngoài các am thờ, miếu thờ, làng có Chùa làng (chùa Trầm
Hương) để bà con trong lòng muôn rằm tứ qúi, các ngày vía lớn đến viếng chùa.
Giáp nào cũng có cồn mã. Nghĩa địa làng là nơi chôn cất
những người chết đã gắn bó với làng quê, tổ tiên, dòng họ thời sinh tiền.
Trước đây đa số mồ mồ táng tại cồn Kim Lang thuộc giáp
Đồng Nhì cùng táng tại núi Cấm, núi Năm Khe cùng một số địa danh khác như cồn
Tranh, cồn Bường, Chân Huyệt, Mao Đội, Trầm Nhứt, Hòn Qui, cổn Đá cho đến vùng
Hạ Giang cũng có nghĩa địa. Hướng mộ, diện tích mộ thôi thì đủ kiểu, xây to nhỏ
không có qui định. Có am Cống Chém thuộc địa phận làng An Hoà.
Bất kỳ ngưòi Việt nào cũng có hình ảnh ngôi làng trong
tâm tưởng của mình, "Uống nước nhớ nguồn" ăn sâu trong tâm thức của mỗi
người dân Việt Nam. Vào mùa thu tế năm Đinh Sửu (1997) anh Nguyễt Viết Kê chấp
bút "Vè làng tôi":
Làng
ta ba giáp một miền
Giáp
trung, giáp thượng đất liền núi sông
Giáp
Đồng Nhì gắn ruộng đồng
Xuôi
về miền dưới là vùng Hạ Giang
Quanh
năm hoà thuận kết đoàn
Thương
yêu đùm bọc sống trong tuyệt vời...
Làng
ta 3 giáp ai ơi!
Cùng
nhau đoàn kết thuận hoà làm ăn
Làng
ta nếp sống văn minh
Thương
nhau san sẽ, ân tình thuỷ chung
Chiếu lệ hàng năm cứ đến 16 và 17 tháng 7 làng tổ chức
Thu tế - kỳ phước. Lại cách 3 năm Hội tế một lần. Hội tế lần thứ nhật 1987
-1990 với mục đích tưởng nhớ đến công đức Tiền khai canh - hậu khai khẩn cùng
các vị tiền bối đã có công xây dựng làng ngót 5 thế kỷ qua. Lo lễ tế đền ơn đáp
nghĩa đối với các vị tiền bối đó là nền hiếu nghĩa, đạo lý của con dân đang
sinh sống trên địa bàn làng, đồng thời cầu nguyện toàn dân làng an cư lạc nghiệp
làm cho lễ hội được đậm đà văn hoá, dân tộc mang nét tín ngưỡng thần linh đã có
lịch sử hình thành từ xa xưa.
Bước vào thế kỷ 21, thời kỳ hội nhập của đất nước cuộc
sống có thay đổi. Làng không còn tình trạng "Cộng đồng khép kín" mà
đã hoà nhập cuộc sống rộng lớn, cách nhìn nhận của dân làng cũng đã khác. Phải
thấy hồn quê đã phai nhạt mất dần đi. Cái tình làng nghĩa xóm, lá lành đùm lá
rách, thương ngưòi như thể thương thân... ngày đang mai một! Ngay cả luỹ tre bao
bọc làng, hàng cau, hàng chè tàu, cây đa giếng nước đầu làng dần dà không còn nữa.
Con đường bêtông của các xóm là nét văn hoá làng. Văn hoá làng dần dà chuyển
sang khái niệm mới phố làng.
* Nhân tài của
làng An Hoà:
Nhân dân làng An Hoà thừa hưởng tính hiếu học của tổ
tiên, tính chiến đấu dũng cảm của cha ông.
Làng An Hòa có 12 Họ. Phải tự hào truyền thống vẻ vang
của Họ Nguyễn Đăng. Có nhiều khoa bảng cùng 21 vị công thần có công với làng, sản
sinh ra 3 Ngài làm lại bộ Thượng Thư.
Làng có truyền thống văn học. Có nhiều ngưòi hiền tài
như danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ, Lễ Bộ kiêm Lại Bộ Nguyễn Đăng Thịnh. Nhân vật nổi
tiếng nhất khai quốc công thần Ngài Nguyễn Cư Trinh. Danh nhân Thừa Thiên
Huế dày công khai phá miếng đất phì nhiêu miền Tây Nam Bộ. Con cháu trong làng
từng được vinh danh văn thần võ tướng đã một thời vang bóng vào thế kỷ 17,18
trước đây .
3 thập niên gần đây. Có gia đình đạt khoa cử 2 tiến
sĩ, 4 kỹ sư, 4 đại học...
Đầu thế kỷ 21 làng An Hoà con số Thạc sĩ, giáo sư, kỹ
sư,... còn nhiều người biên soạn chưa nắm hết được.
An Hoà vùng đất địa linh, nhân kiệt được hình thành 5
thế kỷ (từ ngày mở nước). Xuất phát câu ngạn ngữ đương thời vào năm 1700 "Học
Đồng Dì, thi An Hoà" thể hiện con dân làng chiếm nhiều khoa mục nhất.
Về sau này có cụ Nguyễn Đăng Thi đời thứ 13 hậu duệ họ
Nguyễn Đăng mở trường tư thục sơ cấp An Cư. Học trò theo học rất đông, nhiều người
đỗ đạt làm nên chức phận lớn phục vụ cho đất nước, cho Tổ quốc Việt Nam.
Làng quê thật đẹp, nét đẹp của một làng văn hoá cổ xưa
với những con người mộc mạc và giàu trí tuệ. Dù có đói cơm cùng không chịu đói
chữ, con cháu quyết vinh danh khoa cử.
* Hệ thống tổ
chức làng An Hòa:
Nhân dân ta có "truyền thống tưởng nhớ các bậc tiền
nhân có công khai canh khai khẩn, khai hoang nên đã xây dựng ngôi đình làng qua
các thế kỷ để thờ các vị thần linh, các vị khai canh, khai khẩn cùng các vị có
công thần với làng nước. Chiều dài 5 thế kỷ sản sinh 12 Họ. Theo bài văn tế
làng cuối Triều Nguyễn Ngài thủy tổ khai
khẩn là Họ Hồ tiếp đó Ngài khai canh
thuộc Họ Trịnh (vào năm 1705 đổi thành Họ Nguyễn Đăng).
Trong văn tế làng có 23 Ngài có công với nước, với
làng được đọc trong văn tế. Họ Nguyễn Đăng chiếm 21 ngài trong đó Ngài Nguyễn
Cư Trinh được phong Trung đẳng thần.
Trưỏng làng qua các thời kỳ: Ô Hiệu, Ô Lý Cửu, Ô Em, Ô
Lý Lam, Ô Lí Thí, Ô Lý Cát, Ô Kiểm Vị, Ô Giai, Ô Lôi, Ô Gót (1989)
Quá trình công nghiệp hoá đất nước tất yếu sẽ dẫn đến
phố làng. Tuy nhiên những con người làng quê vẫn chân thật, rất có tình, yêu mến
và quan tâm đến nhau, chia sẽ với nhau trong tình làng nghĩa xóm. Là con dân của
làng dù sống bất cứ đâu vẫn nhớ về làng cũ, luôn hoài niệm trong ký ức hai chữ An
Hòa.
Kính mong quí bà con trong làng có tư liệu hoặc ý kiến
bổ sung làm phong phú thêm bài viết An Hoà - Mảnh đất quê hương chưa được
đề cập đến...
Mọi ý kiến xin liên hệ qua ông Nguyễn Đăng Anh: ĐT
054.580237 hoặc DĐ: 0986.408400
Xin chân thành cảm ơn.
NGHI LỄ TẾ THẦN
Túc yết nghi: (Tiên yết) .
1. Củ soát tế vật (kiểm lại đồ cúng)
2. Khải sắc (mở hòm sắc ra, trải sắc chỉ ra)
3. Ế mao huyết (rút chén lông và huyết ếm bàn thần, đem ra
để ngoài bàn lễ sinh)
4. Chấp sự giả các tư kỳ sự
5. Khởi thái bình (mõ)
6. Khởi chung cổ (chuông trống)
7. Thái bình, chung cổ tề minh (3 thứ luân phiên gióng)
8. Nhạc sinh tựu vị (nhạc vào trước hương án)
9. Nhạc sinh khởi nhạc (nhạc cứ tiếp giá: 3 hồi, 3 chậm)
10. Niệm hương tựu vị (ông niệm hương vào trước hương án)
11. Phần hương (người hầu đốt hương)
12. Qùi
13. Niêm hương (khấn niệm lớn tiếng)
14. Thượng hương (người hầu cắm hương làn bàn hương án)
15. Phủ phục (cuối xuống)
16. Hưng bình thân (đứng dậy)
17. Nghinh thần (rước thần)
18. Cúc cung bái (xướng 4 lần lạy 4 lạy. Nhạc cử Bạc đàng)
19. Hưng bái - Hưng bình thân
20. Bổn thân viên quan hương chức đồng lai bái (thảy đều 4
lạy)
21. Bồi tế tựu vị (ông bồi tế vào hương án)
22. Đông Hiến, Tây Hiến, các tựu vị (hầu lễ vào hai bên)
23. Chánh tế tựu
vị (ông Chánh tế vào)
24. Nghệ quán tẩy (lại đàn rửa mặt)
25. Quán tẩy (rửa mặt)
26. Phục vị (trở lại bàn hương án)
27. Khởi tuần
hương
28. Nghệ hương án tiền (nhạc xây lá, lễ sinh đi vào dâng
hương trầm)
29. Quì trước hương án ngoại
30. Phần hương (Chánh tế đốt trầm do lễ sinh quì trao)
31. Thượng hương (lễ sinh đi lên dâng trầm - Sau khi lễ
sinh trỏ xuống)
32. Phủ phục (cúi xuống)
33. Hưng bình thần (đứng dậy)
34. Cúc cung bái, Hưng bái (xướng 4 lần, lạy 4 lạy)
35. Hưng bình thân
36. Phục vị (Chánh tế thụt lại một chút)
37. Khởi tuần rượu (lễ sinh đất đèn)
38. Hành hiến lễ
39. Nghệ thân vị triền (nhạc xây lá, lễ sinh đi vào)
40. Quì (Trước hương án ngoại)
41. Tấn trước (lễ sinh quì trao cho cánh lễ rót rượu)
42. Hiến trước (lễ sinh đứng dậy, đi dâng rượu)
43. Chuyển chúc (3 lễ sinh đến lấy dài bản văn tế)
44. Giai quỳ (đồng quì)
45. Đọc chúc (một lễ sinh cầm đèn, một cầm bản văn, một đọc
văn)
46. Điểm trà
47. Dâng trà thẳng lên bàn thần, nhạc cử bài Ngũ điếm)
48. Phần Chúc (đốt văn)
49. Nạp sắc (để sắc chỉ vào hòm)
50. Lễ thành (tất)
51. Chảnh tế, bồi té, xuất vị (để lễ sinh lạy 4 lạy)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét