7/02/2011

Hậu duệ Họ Nguyễn Đăng đóng góp cho Chúa Nguyễn - Vua Nguyễn

- Nguyễn Đặng Trị (1653 - 1712) tự Đại Chánh, hiệu Thuận Đức. Thi đậu Cống Sĩ làm quan trải 3 đời Chúa. Làm Chánh Dinh Văn Chức Viện kiêm Giám Thân. Thụy Trung Cần tặng Đắc Tấn Triều Nghị Đại Phu.

- Nguyễn Đăng Đệ (1669 - 1727): Huý Viễn, Tiểu Tự Bang, hiệu Hoà Đức.
Đăng Đệ cháu 7 đời của Trịnh Cam, là người ôn nhã, trung chính văn học sâu rộng. Năm Đăng Đệ còn nhỏ có thầy tướng trông thấy bảo rằng: “Khiếu mắt có tàng thần là quý cách đấy!”.
Năm Ất Hợi (1695) thi đậu Tú Tài làm Huấn đạo phủ Triệu Phong.
Năm Tân Tỵ (1701) thi đậu Hương tiến làm Tri huyện Minh Linh.
Năm Giáp Thân (1705) làm Tri huyện Hương Trà
Năm Mậu Tý (1709) thăng Viện Văn Chức
Năm Kỷ Sửu (1710) Làm Chánh Dinh Ký Lục Quảng Nam
Năm Ất Mùi (1715) thăng chức Chánh Doanh Đô Tri
Năm Đinh Dậu (1717) làm Ký Lục Khâm Sai Quảng Nam
Tiếng tăm lừng lẫy được dân chúng tín phục, Chúa viết câu đối ban cho:
“Lập luật pháp, bớt hình phạt lại thấy triều ta có Cấp Ảm
Làm cho dân không kiện cáo mới biết nước ta có Hoài Nam”.
Năm Giáp Thìn (1724) thăng Chính Dinh Ký Lục tham dự việc chính trị trong nước.
Năm Bính Ngọ (1726) làm Tuần Vũ Quảng Nam thanh tra các tỉnh miền Nam.
Năm Đinh Mùi (1727) ốm nghỉ hưu
Đăng Đệ làm quan trường được hơn 30 năm.
Mất giờ Dần tháng 11 năm Đinh Mùi. Thọ 59 tuổi
Thụy Cương Nghị được tăng phong Đặc Tấn Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Đăng Đệ, có 2 vợ sinh được 15 trai và 10 gái.
Trong đó: Con trai thứ 3 Đăng Đạo làm Khâm Sai Cai Bộ Ký Lục
Con trai thứ 5 Đăng Thọ làm Tri Huyện Quảng Điền
Con trai thứ 7 Đăng Nghị (Nguyễn Cư Trinh) giữ chức Lại Bộ Thượng Thư khai quốc công thần.
- Nguyễn Đăng Đường (1748 - ?) tự Đại Bửu. Người ôn hậu, học giỏi có tiếng, đương thời sĩ phu kính nể.
- Nguyễn Đăng Hán (1750 - ?) tự Quí. Đậu Hương Tiến.
- Nguyễn Đăng Thịnh (1694 - 1755)
Tự Chuyết Trai hiệu Hương Danh.
Sinh giờ Sửu ngày 24/4/Giáp Tuất (1694)
Mất giờ Thìn ngày 5/6/Ất Hợi (1755)
Năm Đinh Hợi (1707): 14 tuổi đậu Nhiêu học
Năm Quý Tỵ (1713): 20 tuổi Bổ Lễ Sinh
Năm Tân Sửu (1721): 28 tuổi đậu Cống Sĩ làm Tri huyện Hương Trà
Năm Ất Tỵ (1725): 32 tuổi Thị Giảng Thái Tử
Năm Mậu Thân (1728) 35 tuổi Đốc Trưng huyện Minh Linh
Năm Canh Tuất (1730): 37 tuổi thăng Đô Tri
Năm Tân Hợi (1731): 38 tuổi Ký Lục Quảng Nam
Năm Quí Sửu (1733): 40 tuổi Khâm sai duyệt Phủ Thăng Hoá
Năm Ất Mão (1735): 42 tuổi Thăng Nha Ký
Năm Quí Hợi (1743): 49 tuổi Khâm Sai duyệt trường Dân Kênh
Năm Giáp Tý (1744): 50 tuổi giữ chức Thượng Thư Lễ Bộ kiêm Lại Bộ
“Điển chương pháp độ đều do Đăng Thịnh kiến lập rõ ràng, còn từ lệnh thì ra tay từ Cư Trinh”.
Hưởng Thọ 62 tuổi tặng chức Táng Trị Công Thần Đặc Tấn trụ quốc kim tử Vinh lộc Đại phu Chính trị Thượng khanh tham nghị. Thuỳ Cần thận.
Có 3 tập thơ truyền lại cho đời:
Chuyết trai văn tập
Chuyết trai vịnh sử tập
Hiệu tần thi tập
Có 2 vợ sinh hạ được 10 trai và 14 gái.
Trong đó có 4 trai đậu Cử nhân đó là: Đăng Huy, Đăng Giám, Đăng Hạc, Đăng Vinh.
- Nguyễn Đăng Tấn (1701 - 1747) tự Minh Khiêm huý Thái hiệu Mẫn Huệ.
Lúc nhỏ nhà nghèo mà siêng học, giỏi nghề thơ phú, học rộng có tiếng. Thi Tiến sĩ không đậu, quan trường mến tài tâu lên Vua, triều đình tiến vào Văn chức viện kiêm Thị giảng. Mùa Xuân năm Kỷ Mùi thăng Tuần Vũ Phú Yên, có tiếng chính trị giỏi. Năm Tân Dậu về Viện Hàn Lâm ứng chế thi văn Vua rất hài lòng. Mùa thu năm Bính Thìn (1736) làm Ký Lục Quảng Nam rồi đi khâm sai tuần sát các châu, huyện Hải Lăng, Võ Xương và Bố Chánh. Lúc đó công việc nhiều mà giải quyết trôi chảy ai cũng phục tài nhanh chóng. Vua gọi vào cung hỏi tình hình dân gian, tấu đối rõ ràng. Mất giờ Hợi ngày 28 tháng 9, thọ 47 tuổi. Tặng chức Tá Lý công thần, Đặc tấn kim lộc Đại phu Chính trị thượng khanh. Thụy Văn Trung.
Có trước tác 2 tập thi sử:
Minh Khiêm thi tập
Minh Khiêm sử tập
Có một vợ sinh hạ 8 trai và 9 gái. Trong đó có 4 con đậu Hương Tiến (cử nhân): Đăng Khuôn, Đăng Khương, Đăng Lượng, Đăng Suất.
- Nguyễn Đăng Cẩn (1704 - 1747) tự Bá Nghiễm, tiểu tự Thốc, huý Đăng Đạo. Sinh giờ Tỵ ngày 30 tháng 2 năm Quí Mùi. Khi 10 tuổi tập ẩm thọ văn chức Viện. Mùa thu năm Đinh Tỵ (1737) khỉ phục Viện Hàn Lâm, rồi thăng chức Khâm sai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) làm việc Cai Bộ ký lục. Mùa hạ năm Đinh Mão (1747) đánh dẹp đảng Lý Văn Quang mà bỏ mạng khi 45 tuổi. Mất rồi rất linh hiển. Tặng Đặc Tấn vinh lộc Đại phu Đại lý Tự khanh. Thụy Trung Nghị.
Có 2 vợ và sinh được 3 con:
Đăng Nẩm: Tri phủ Phú yên
Đăng Thông: Khâm sai thống binh Chưởng Cơ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét