7/02/2011

Hậu duệ Họ Nguyễn Đăng đóng góp cho Chúa Nguyễn - Vua Nguyễn (p2)

- Nguyễn Đăng Thọ (1706 - ?) huý Đăng Sùng tự Trọng Phủ hiệu Khiêm Đức. Sinh giờ Thìn ngày 26/4 năm Bính Tuất (1706) làm Huấn Đạo Quảng Điền rồi Tri Huyện. Mất ngày 6/6 con là Nguyễn Đăng Giao huý Đoạn làm Câu Kê ở Gia Định.

- Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767) huý Đăng Nghi, tự Đạm Am, hiệu Hạo Nhiên, đường quan hiệu Nghi Biểu.
Sinh giờ Dần ngày 12 tháng 1 năm Bính Thân (1716). Lúc nhỏ là người đỉnh ngộ, ngay thẳng, khí tiết, có tài kinh tế, học rộng,  hay chữ, cũng nổi tiếng như anh là ông Chuyết Trai. Làm quan đi khắp nơi vẫn giữ thanh bạch, lập được nhiều công. Triều đình trọng nể.
Năm Quí Sửu (1733) 18 tuổi thi đậu lãnh chức Huấn Đạo.
Mùa Thu năm Canh Thân (1740) thi đậu Cống Sỹ lãnh tri phủ Triệu Phong.
Mùa Đông năm Ất Sửu (1745) thăng Văn Chức Viện
Mùa Xuân năm Canh Ngọ (1750) Khâm Sai Tuần Vũ Quảng Ngãi dẹp yên loạn Đá Vách.
Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1752) về triều nghị sự.
Mùa Xuân năm Quý Dậu (1753) lãnh Bố Chánh (Tỉnh Quảng Bình)
Mùa Đông đi khâm sai tham mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn (Gia Định) và Định Viễn (Định Tường). Đi kinh lý biên vụ bắt tội nhân hơn 30.000 người và thâu đất được ngàn dặm. Ở biên thuỳ hơn 11 năm, tiếng tăm lừng lẫy. Năm Ất Dậu (1765) được triệu về thăng Lại Bộ kiêm việc Tào Vận, thương nghị việc nước, khi lập Triều Trương Phúc Loan cũng phải khiếp sợ.
Mất giờ Tý ngày 27 tháng 5 năm Đinh Hợi (1767) thọ 52 tuổi tặng Tá lý công thần đặc tấn trụ quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại phu Chính trị Thượng khanh tham nghị. Thụy Văn Dinh.
Ở miếu Hội đồng các tỉnh: Gia Đình và Định Tường đều có thờ Ngài rất linh ứng sắc phong làm chức Trung Đẳng Thần.
Năm Mậu Tuất (1838) Minh Mạng thứ 20 vua Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế truy lục công lớn của Ngài được gia tặng Khai Quốc Công Thần Vinh Lộc Đại Phu hiệp biện Đại Học Sĩ lãnh lại Bộ Thương thư tấn phong Tân Minh Hầu.Thụy Văn Khác thờ ở Thái Miếu (Đại Nội Huế).
Nguyễn Cư Trinh có tài thao lược, giỏi quyết đoán và là người đề ra nhiều chính sách sáng suốt và có hiệu quả trị an dân chúng mở cõi nơi biên cương... Bao giờ cũng chủ trương “tâm cong” bất đắc dĩ mới dùng đến vũ khí. Thực hiện kế sách “tằm ăn lá dâu” trong việc mở mang đất đai Nam Bộ cho chúng ta hưởng ngày nay.
Năm 1757 Nguyễn Cư Trinh hoàn tất công cuộc đặt nền tăng hành chính miền Tây Nam Bộ.
Vậy là lúa gạo hàng hoá tăng lên gấp bội từ 1757 đến 1767. Qua thị trường Sài Gòn - Bến Nghé lúa gạo Nam Bộ bắt đầu làm chuyển đổi phương thức sản xuất ở nước ta. Người có công nhất trong giai đoạn “kính bang tế thế” đó là Nguyễn Cư Trinh.
Nguyễn Cư Trinh với các tác phẩm để lại:
- Đạm Am thi tập
- Hạo Nhiên Đường Văn Tập
- 10 bài hoạ Hà Tiên thập vịnh cánh
- Quảng Ngãi thập nhị cảnh.
- Truyện Sãi Vãi
Nguyễn Cư Trinh có 3 vợ sinh hạ được 9 trai, 6 gái:
Trong đó:
Nguyễn Cư Tu đậu Cử nhân làm Cai Đội
Nguyễn Cư Tiếu bổ Hàn Lâm Viện rồi Khâm sai thống binh
Nguyễn Cư Tuấn bổ Hàn Lâm Viện trưởng rồi Cai Bộ dinh Quảng Trị.
- Nguyễn Đăng Xuân (1747 - 1843) Sinh ngày 9 tháng 9 năm Đinh Mão làm thư ký huyện, mất ngày 27 tháng 8 năm Quí Mão, thọ 97 tuổi.
- Nguyễn Đăng Cao (1764 - 1831) tiểu tự Ngọ, hiệu Tá Tài. Sinh năm Giáp Thân. Người có trí tuệ giỏi biện luận. Làm quan Chánh Dinh lịnh sử Ty Câu Kê, làm việc Bộ Lễ.
Mất giờ Dậu ngày mồng 6 tháng 2 năm Tân Mão. Thọ 68 tuổi, Thụy Cương Mẫn. Hàng năm Chạp nhánh Nham Biều vào ngày 6/2 Âm lịch.
Một vợ sinh được 8 trai, 3 gái , trong đó:
Đăng Qụy làm Tri huyện
Đăng Bàng làm Tri huyện, Khâm sai cai đội
Đăng Vạn Khâm sai cai đội
Đăng Phong Dực Vận Công Thần.
- Nguyễn Đăng Soạn (1784 - ?) Tự Đăng Vân, hiệu Kính Lễ, sinh giờ Dậu ngày 18 tháng 3 năm Giáp Thân. Làm quan tham tri coi việc binh. Tuổi già từ quan về dạy học, mất ngày 14 tháng 3.
- Nguyễn Đăng Duy: hiệu Kiểm Hiệu. Đậu Hương Tiến, được bổ Hàn Lâm Viện. Thụy Doãn đạt.
- Nguyễn Đăng Giám (1722 - ?) hiệu Chân Lý. Đậu Hương Tiến
Làm cai bộ Dinh Trấn Biên. Tặng Đặc tấn Ngân thanh Quang Lộc Đại phu Từ Trị Thiếu Khanh. Thụy ôn Hậu
- Nguyễn Đăng Thực : Tự Biểu Chi. Tặng Đặc Tấn đại phu khâm sai tham mưu. Mất ngày 17 tháng 11.
- Nguyễn Đăng Khánh: hiệu Hựu Thụy. Làm Câu Kê ty lệnh sử.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét