7/02/2011

Hậu duệ Họ Nguyễn Đăng đóng góp cho Chúa Nguyễn - Vua Nguyễn (p3)

- Nguyễn Đăng Vinh (1743 - 1810)
Sinh năm Quý Hợi. Mùa Hạ năm Mậu Tuất (1778) được Hoàng Tín Đại Phu Tu Viện Doãn Hàn Lâm trực giảng. Mất ngày mồng 9 tháng 5 năm Canh Ngọ (1810) hưởng thọ 68 tuổi.
Mùa thu năm Ất Dậu (1825) Minh Mạng lục miên. Thánh tổ Nhâm Hoàng Đế truy có công và truy tặng Trung Nghị Đại phu Tư Trị Thiếu Khanh, Quang Lộc Tự Khanh, Thụy Cần Thận.

Có 2 vợ sinh 1 trai và 2 gái.
Đăng Tán: Tu soạn viện Hàn Lâm làm việc ở Bộ Lại.
- Nguyễn Đăng Hạc (1746 - ?) tự Tự Phong hiệu Ấn Quang, sinh năm Bính Dần, Đậu Hương Tiến. Được Hàn Lâm Viện, mất ngày mồng 7 tháng 2.
- Nguyễn Đăng Khuôn (1730 - 1790) hiệu Khuôn Chánh, Đậu Hương Tiến. Làm quan 2 triều Chúa đến chức Cai Bộ dinh Bình Thuận và Cai Bộ dinh Quảng Nam, tuần hành 5 phủ kiêm lãnh việc binh nhung.
Mất ngày 23 tháng 1. Tặng Đặc Tấn Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu. Thụy Thành Nghị. Hai triều Chúa:
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 - 1765)
Chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777)
- Nguyễn Đăng Khương (1732 - ?) hiệu Khương Tế, đậu Hương Tiến, làm quan Triều nghị Đạ phu Hàn Lâm Viện. Mất ngày 20 tháng 8.
- Nguyễn Đăng Lượng (Huy) (1734 - 1774) Tự Huy Quang, Đậu Hương Tiến bổ Hàn Lâm Viện. Năm Giáp Ngọ binh Bắc vào kinh đô, Huy chạy ra núi Minh Linh, Quảng Trị chiêu mộ binh lính Cần Vương tự xưng “Bình Bắc Đại Tướng Quân” chống cự với giặc, chết ở trong rừng.
- Nguyễn Đăng Suất (1736 - 1774): Đậu Cống Sỹ, bổ Triều Nghị Đại Phu Hàn Lâm Viện. Năm Giáp Ngọ binh Bắc vào lấy kinh đô, vì kháng cự mà bị hại/
- Nguyễn Đăng Nẩm tự Quốc Yến, làm Tri Phủ Phú Yên.
- Nguyễn Đăng Thông (1724 - 1782) hiệu Kiểm Đức.
Sinh năm Giáp thìn. Khi Tây Sơn vào đánh. Thông chạy vào Gia Định mộ lính Cần Vương. Khi Vua Gia Long lên ngôi được bổ làm Khâm Sai Thống binh Chưởng Cơ. Ngày mồng 1 tháng 5 Tân Sửu, giao chiến với giặc mà bị hại. Thọ 58 tuổi.
Thông có 3 người con: Đăng Vinh, Đăng An, Đăng Lục đầu thời trung hưng đều tòng quân làm Cai Đội.
- Nguyễn Đăng Giao: huý Đoạn. Làm Câu Kê ở Gia Định, mất ngày 16 tháng 12. Mộ chôn ở Bình Định.
- Nguyễn Cư Tu (1752 - 1808) tự Chánh Tiên.
Sinh ngày 19 tháng 11 năm Nhâm Thân, đậu Hương Tiến, Ấm Thọ Hàn Lâm Viện. Khi Tây Sơn vào Gia Định Cư Tu mộ lính Cần Vương, lại gặp Nguyễn Nhạc mời ra bổ Tri huyện nhưng chỉ nhận vài ngày rồi treo ấn bỏ đi. Đời Long Hưng đánh giặc làm Cai Đội.
Mất ngày mồng 2 tháng 6 năm Mậu Thìn. Thọ 57 tuổi.
- Nguyễn Cư Tiếu (Dật) (1755 - 1775) tự Thành. Sinh giờ Tý mồng 1 tháng 6 năm Ất Hợi. Năm Kỷ Sửu (1769) vừa 16 tuổi bổ Hàn Lâm Viện. Là người có khí khái. Duệ tông Hoàng đế năm thứ 9 (1774) tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc ở Bắc Hà vào đánh, mới đến Huyện Quảng Điền thế sự rất gấp Cư Dật nghĩ nhà mình mấy đời ăn lộc, lật đật tâu vua xin liều chết lãnh chức khâm sai Cai Đội, lập tức chúa cho, đem quân đi chống giặc, quân thế hơi mạnh được thăng khâm sai tướng binh đem các đạo bộ binh chặn đánh. Thế giặc rối loạn, vì ít không địch nổi. Mùa đông ngày 28 tháng 12 đánh nhau tại sông Bái Đáp, Cư Dật sang sông Phú Lễ bị chết đuối. Thụy Trung liệt. Thọ 20 tuổi.
- Nguyễn Cư Tuấn (1760 - 1827) tự Tú Thăng, huý Phó, hiệu Khắc Nho, Tuấn Đức. Sinh giờ Thìn ngày 20 tháng 6 năm Canh Thìn. Năm Giáp Ngọ 1774 tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc vào đánh, Tây Sơn cũng ra đánh. Cư Tuấn vượt biển vào Gia Đình mộ lính Cần Vương chiêu tập nghĩa dũng được mấy ngàn người, tự xưng “Khâm sai trung tham mưu đại tướng” chống cự với giặc.
Khi vua Gia Long lấy xong Gia Định, Cư Tuấn bái yết vua tại hành cung rồi xin về, thi đậu Nhiêu học. Mùa Xuân năm Quí Sửu (1793) trúng tuyển bổ làm Thị Học ở Quốc tử giám. Năm Giáp Dần (1794) thăng Hàn Lâm Viện sung Đông Cung Thị Học. Năm Kỷ Mùi (1799) bàn mật kế làm cho thành Quy Nhơn đầu hàng. Năm Nhâm Tuất (1802) theo hầu Vua Gia Long lấy được kinh đô. Mùa Xuân thăng Hàn Lâm Viện trưởng. Năm Quí Hợi (1803) hầu Ngự Giá Bắc tuần. Mùa đông thăng Thiên Sự Bộ Hộ Lưu ở Bắc Thành coi việc bộ Hộ. Mùa Hạ năm Giáp Tý (1804) thăng Hiệp Trấn Sơn Tây. Mùa Thu năm Đinh Mão (1807) đổi về Hàn Lâm viện trưởng. Mùa đông năm Quí Dậu (1813) khởi phục Trung Phụng Đại Phu, trực lệ Cai Bạ dinh Quảng Trị. Mùa Xuân năm Canh Thìn (1820) phụng chỉ về kinh. Mất ngày 24 tháng 4 năm Đinh Hợi (1827). Thụy Trung Thận. Thọ 66 tuổi.
- Nguyễn Cư Xước (1762 - 1802) tự Chương Thiện huý Kính. Sinh ngày 17 tháng 8 năm Nhâm Ngọ.
Năm Kỷ Hợi (1779) chạy vào Gia Định mộ lính Cần Vương. Thọ 40 tuổi.


Nguyễn Đăng Xương (1787 - ?) hiệu Trương Chánh, sinh ngày 22 tháng 8 năm Đinh Mùi. Làm Huấn Đạo kiêm Phó Tổng Trưởng. Mất ngày mồng 7 tháng 6.
Nguyễn Đăng Quy huý Long hiệu Hy Đức. Làm tri huyện, mất ngày 20 tháng 7.
Nguyễn Đăng Bàng huý Gián. Làm tri huyện Bồng Sơn Cải Khâm Sai Cai Đội, mất ngày 17 tháng 2.
Nguyễn Đăng Vạn (1790 - 1830) thuộc đời Lê Cảnh Hưng và Gia Long, hưởng thọ 40 tuổi. Thuỵ Tráng Duệ Tặng là Cai Đội Dực Vận Công thần. Thờ ở Miếu Trung Tiếc - Đại nội Huế.
Nguyễn Đăng Thường làm giáo chức. Mất ngày 15 tháng 10.
Nguyễn Đăng Phong (1792 - 1811)
Đời Vua Long Hưng, Đăng Phong ban đầu giữ chức Đô Ty ở Gia Định sau thăng chức Khâm Sai Tá Đồn Quân Thần Sách rồi Thăng Phó Vệ Uy Vệ Túc Võ Cai Cơ thuộc nội.
Ngày 20 tháng 7 năm Tân Mùi (1811) đi thuyền ra bể đánh giặc bị gió chìm thuyền mà mất. Vua Gia Long tặng Dực Vận Công Thần Đặc Tấn Phụ Chuốc Thượng tướng Quân Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ. Thuỵ Oai Dõng thờ tại Miếu Trung Tiếc - Đại nội Huế.
Nguyễn Đăng Tái huý Xuyên, tự Đăng Chuẩn.
Sinh ngày 3 tháng 4 năm Nhâm Ngọ (1822). Làm Biện Lại, mất ngày 13 tháng 6.
Nguyễn Đăng Lệ (1828 - 1878) huý Thân, sinh giờ Mùi ngày 8 tháng 1 năm Mậu Tý. Làm Chánh Dinh Thừa Vụ. Mất ngày 26 tháng 7 năm Mậu Dần, thọ 51 tuổi. Thuỵ Cương Trực.
Nguyễn Đăng Tán (1808 - 1866) tự Thiên Tích, hiệu Tương Chi. Sinh ngày 10 tháng 6 năm Mậu Thìn. Năm Giáp Thân (1824) vào Trường Quốc học.
Mùa Xuân năm Quí Tỵ (1833) bổ Bộ lại.
Mùa Đông năm Bính Thân (1836) thăng kinh lịch Quảng Ngãi.
Mùa Đông năm Canh Tý (1840) thăng Thông Phán dinh Bố Chính
Năm Tân Sửu (1841) quyền nhiếp ấn Hyện Mộ Đức (Quảng Ngãi). Mùa thu năm Nhâm Dần (1842) có chỉ triệu về kinh cải bổ tu soạn viện Hàn Lâm làm việc ở Bộ Lại. Năm Giáp Tý (1864) bổ Bộ Lại huyện Vĩnh Xương tỉnh Khánh Hoà. Mất ngày 24 tháng 5 năm Quí Sửu. Thọ 58 tuổi.
Nguyễn Đăng Đạt (1852 - 1899). Sinh năm Nhâm Tý, làm đủ 4 nghề: Nho, Y, Lý, Bốc nghĩa là dạy học, thầy thuốc, thầy địa và thấy bói. Mất ngày 12 tháng 11 năm Kỷ Hợi. Thọ 47 tuổi.
Nguyễn Đăng Chiêu (1854 - 1901) tiểu Tự Bôi. Sinh năm Giáp Dần. Làm thầy phù thuỷ. Mất ngày 29 tháng 9 năm Tân Sửu. Thọ 48 tuổi.
Nguyễn Đăng Thiệp (1862 - 1927) sinh giờ Thân tháng 4 năm Nhâm Tuất, làm nghề thầy thuốc. Mất ngày 27 tháng 8 năm Đinh Mão. Thọ 63 tuổi.
Nguyễn Đăng Quyền tự Bình Câu. Năm Giáp Ngọ giặc Bắc đến kinh đô, vì mắng giặc mà phải chết.
Nguyễn Đăng Điển. Giặc Bắc đến kinh đô, làm thơ mắng giặc mà bị hại.
Nguyễn Đăng Vinh (1872 - 1932) năm Quí Dậu lúc đầu bổ làm Khâm Sai Cai Đội Dinh túc trực ở Gia Định. Mất ngày 30/3 năm Nhâm Thân. Thọ 60 tuổi.
Nguyễn Đăng An (1877 - 1932) Sinh năm Kỷ Mão. Đời Long Hưng bổ làm Cai Đội Gia Định. Mất năm Nhâm Thân. Thọ 55 tuổi.
Nguyễn Đăng Lực (1828 - 1894) tức Tại. Sinh năm Mậu Tý. Đời Long Hưng bổ làm Cai Đội Khâm Sai Võ Giáp, vua cho tên Thuận hiệu Hoà, tùng chinh hơn 20 năm. Về hưu đời vua Gia Long. Đời Minh Mạng khỉ phụ Cai Thú Nghệ An, đội 2 Tráng Võ Quân Thần Sách. Mất ngày 17 tháng 2 năm Giáp Ngọ. Thọ 67 tuổi.
Nguyễn Đăng Long (1844 - 1887) sinh năm Giáp Thìn. Làm thủ hiệp thuộc Phủ Kiến An. Mất ngày 4 tháng 4 năm Đinh Hợi. Thọ 44 tuổi.
Nguyễn Cư Sĩ (1808 - 1885) tự Thời Phủ, hiệu Song An, biệt hiệu Trúc Pha. Sinh giờ Tuất ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn. Khoa thi Ất Dậu (1825) đậu 2 trường. Năm Mậu Tý (1828) được quan địa phương khen hiếu hạnh tấu vua, vua ban bức biển 4 chữ “Hiếu hạnh khả phong” cho lụa, bạc...
Mùa Hạ năm Canh Dần (1830) bổ Ấn sanh Quốc Tử Giám.
Mùa Thu Giáp Ngọ (1834) thăng Hàn Lâm Viện Biện Tu.
Mùa Đông sung Hành Tẩn Cơ Mật. Mùa Thu Ất Mùi (1835) Sung Biện Tu Sử Quán. Mùa Thu năm Đinh Dậu (1836) được Cáo Thọ Văn Lâm Lang, tri huyện Kim Sơn, mùa Đông Nhiếp Biện Ấn Phẩm Phủ An Khánh.
Mùa Hạ năm Mậu Tuất (1838) về kinh rồi lại nhiếp ấn phẩm phủ An Khánh. Mùa Thu phụng chỉ về kinh đô bổ Hậu Bổ, rồi được bổ đi thông phán dinh Bố Chánh ở Hải Dương. Mùa Hạ năm Kỷ Hợi (1839) bổ Tri huyện Tiên Minh. Mùa Thu năm Tân Sửu (1841) được Cáo Phó Phụng Nghị Đại Phu Minh Thái Đao giám sát Ngự Sử. Mùa Đông khâm phái dò xét tình hình địa phương 13 tỉnh ở Bắc Kỳ. Mùa Xuân năm Quí Mão (1843) thụ lễ khoa chưởng ấn cấp sự trung kiểm kê tôn nhân phủ Sự Vụ. Mùa Thu được Cáo Thọ Triều Liệt Đại Phu Thái Bốc Tự Khanh gia triều Bào tam phẩm sung khai khâm sai Viện Đông Phó hành giới.
Mùa Xuân năm Giáp Thìn (1844) đi sứ nước Việt làm phó sứ sang Việt Đông (Trung Quốc) bàn về vấn đề biên giới thay Thọ Đại lý Tự Thiếu Khanh. Mùa Thu năm Ất Tỵ (1845) được Cáo thọ Trung Thuận đại Đồ Hình Án Sát Sứ Phủ Định Tường. Mùa Xuân năm Đinh Mùi (1847) thụ tại Thừa Tuyên Bố Chánh .........tỉnh Phú Yên, Gia Định.
Mất mùa Hạ ngày 28 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), hưởng thọ 77 tuổi. Thuỵ Khải Mục.
Nguyễn Đăng Khải (1810 - 1865)
Tự Minh Phủ, hiệu Trà Giang. Sinh giờ Tý ngày 12 tháng 9 năm Canh Ngọ. Mùa Thu năm Canh Tý (1840) vào Ấm Sanh Quốc Tử Giám. Mùa Đông năm Quí Mão (1843) đi Hậu Bổ tri huyện Minh Chánh. Năm Kỷ Dậu (1849) phải giúp việc ở Bộ Lại. Năm Canh Tuất (1850) làm Thừa Biện Bộ Lễ. Năm Tân Hợi bổ Ấm Thọ Chánh Đội trưởng. Năm Giáp Dần (1854) được cải bổ làm Chánh Lục Phẩm Văn ........tập phong trước tận Ninh Nam. Mất ngày 23 tháng 9 năm Canh Thân, thọ 55 tuổi.
Nguyễn Cư Viên (1813 - ?) tức Bảo tự Thừa Cáo hiệu Thảo Song. Sinh giờ Ngọ ngày 29 tháng 8 năm Quí Dậu. Năm Nhâm Dần (1842) vào Ấm sanh Quốc Tử Giám. Năm Bính Ngọ (1846) khiêu bổ Hàn Lâm Viện Kiểm thảo làm việc Hội Điển. Mùa Đông năm Canh Tuất (1850) được sắc thọ Văn Lâm Lang Tri Huyện Thiên Lộc. Mất ngày 24 tháng 6.
Nguyễn Cư Thân (1818 - 1863) tức Vỹ, tự Lý Chi hiệu Ninh Giang Đình. Sinh giờ Thìn ngày mồng 4 tháng 7 năm Mậu Dần. Mùa Thu năm Canh Tý (1840) vào Ấm Sanh Quốc Tử Giám. Mùa Thu năm Giáp Thìn bổ Giám Sinh. Năm Bính Ngọ đậu Khiên bổ Hàn Lâm Viện kiểm thảo Sung Án Biên Đại Nam. Hội Điển năm Ất Mão (1855) cáo thọ Viên Ngoại Ty Tân Hưng Bộ Lễ.
Mất ngày 6 tháng 7 năm Quí Hợi (1863).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét