7/02/2011

Thân thế cụ Nguyễn Cư Trinh



Nguyễn Cư Trinh (Bính Tuất [1716] - Đinh Hợi [1767]), tên chữ: Nghi, hiệu: Đạm Am, là danh tướng và là một danh sĩ thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát và Định vương Nguyễn Phúc Thuần, Đại Việt. Ngoài tài văn võ, ông còn nổi tiếng là ngườiliêm chính, giỏi việc chính trị, doanh điền, ngoại giao và có phong độ của một trạnh thần (bầy tôi dám can ngăn).

Nguyễn Cư Trinh, quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, nay thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Tổ tiên xa là Trịnh Cam, gốc người phường Phù Lưu, huyện Thiên Lộc (nay là huyện Can Lộc, Hà Tĩnh), từng làm quan dướitriều Lê đến chức Binh bộ Thượng thư. Khi họ Nhà Mạc lên ngôi thay nhà Lê, Trịnh Cam lánh vào Thanh Hóa chiêu mộ quân giúp nhà Hậu Lê, nhưng việc chưa thành thì mất.
Cha Nguyễn Cư Trinh là ông Nguyễn Đăng Đệ thuộc đời thứ bảy, vốn nổi tiếng về tài văn chương, thi đỗ sinh đồ, làm Tri huyện Minh Linh, được chúa Nguyễn Phúc Chu mến tài ban cho quốc tính (được mang họ Nguyễn).
Là con út trong gia đình có truyền thống văn học, ngay từ nhỏ Nguyễn Cư Trinh cùng anh họ là Nguyễn Đăng Trình, đều đã nổi tiếng hay chữ. (Sau này, khi Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi chúa, những luật lệ đều do Nguyễn Đăng Thịnh đặt ra mà văn từ thì do Nguyễn Cư Trinh thảo).
Năm Canh Thân (1740), ông thi đỗ Hương cống, được bổ làm Tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị), rồi trải qua các chức Tuần phủQuảng Ngãi (Canh Ngọ [1750]), Ký lục dinh Bố Chánh (Quảng Bình), sau đến Lại bộ Kiêm Tào vận sứ, tước Nghi biểu hầu.
Năm Quý Dậu (1753), Nguyễn Cư Trinh sang Chân Lạp đánh Nặc Nguyên (Chey Chettha V).
Năm Ất Dậu (1765) Nguyễn Phúc Thuần lên nối ngôi chúa, quyền thần Trương Phúc Loan ỷ thế lộng quyền. Sách Đại Nam thực lục chép:
Nguyễn Cư Trinh nói: "Chốn triều đình bàn việc đã có định chế, Phúc Loan sau dám vô lễ như thế, sắp muốn chuyên quyền chăng? trong nước sinh loạn tất là người ấy". Phúc Loan giận lắm nhưng e sợ , không dám làm gì.
Năm Đinh Hợi (1767) ông bệnh và mất, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá lý công thần, Vinh lộc đại phu, thụy Văn Định.
Đến đời Minh Mạng, ông được truy tặng là Khai quốc công thần, Hiệp biên đại học sĩ, đổi tên thụy thành Văn Cách, truy phong tước Tân Minh hầu, cho tòng tự ở Thái miếu (Huế).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét